Bạn có biết ông, bà tỷ phú nào nắm trong tay một tài sản lớn
và nhiều hơn tài sản dân tộc?
Bạn có biết ông, bà tỷ phú nào sau khi làm giàu cho cá nhân
và gia đình, họ có còn nghĩ ra và tìm cách thực hiện để giúp người dân trong xã
hội có cuộc sống sung túc??
Nếu mỗi người trong chúng ta biết sử dụng quyền làm chủ và
khai thác tài sản dân tộc để tạo điều kiện giúp đỡ từng gia đình người Việt có
cuộc sống đủ ăn, và rồi giàu có, cũng như giúp cho đất nước ta cường thịnh thì
chúng ta sẽ là vị tỷ phú đặc biệt đứng trên các tỷ phú!!
Nếu chúng ta cứ loay hoay với thái độ tự đắc trong cái ao tù
phe nhóm thì không những chúng ta không lớn được mà lại teo dần theo thời
gian!!!
Ngày 6/3/2014
Phạm Hoàng Tùng.
Bản đồ các tỉnh thành ở Miền Nam Việt Nam trước ngày
30/4/1975.
Ảnh nguồn:
http://coombs.anu.edu.au/~vern/ban_do/rvn.gif
Ảnh nguồn:
http://coombs.anu.edu.au/~vern/ban_do/rvn.gif
Ca khúc Sao Anh Không Về Thăm Gò Công.
Ca sĩ Phương Dung.
Nguồn: youtube.
Ca sĩ Cẩm Ly.
Nhạc sĩ Thanh Sơn.
Nguồn: youtube.
LỊCH SỬ THÀNH LẬP
TỈNH GÒ CÔNG
Về vùng đất Gò Công, một số người nghiên cứu đã viết như
sau:
…Đất giồng cao ráo ven biển thuận lợi cho người từ miền
Trung đến bằng đường biển dễ dàng. Vàm Láng phải chăng đặt tên ấy vì thời xưa
đã mọc lên nhiều lán trại, dành cho ngư dân, không phải vì bãi biển trơn láng,
kiểu giải thích gượng ép.
“Gò” là vùng đất cao ráo. “Công” là con công đến đậu, loài chim đẹp, thích múa,
xòe lông đuôi. Ở Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh) có một nơi cũng gọi Gò Công,
nhưng Gò Công của Thủ Đức là Gò Công Trao Trảo, tên một loài chim rừng.
Đoạn văn trên đây được trích từ:
* Vàm Láng là 1 trong các địa danh nằm trong tỉnh Gò Công
(chú thích của Phạm Hoàng Tùng).
Dinh Chánh Tham Biện tỉnh Gò Công (*)
Năm 1867, Pháp thâu trọn Nam Kỳ, Pháp đổi sáu tỉnh thành 27
vùng Tham biện. Huyện Tân Hòa của cựu trào được đổi thành Tham Biện Gò Công (Inspection
de Gò Công) và do một viên sĩ quan Hải Quân cấp bực Trung Úy làm Chánh Tham
Biện. Sau Tham biện Gò Công đổi thành Hạt Gò Công (Arrondissement de Gò Công)
và đến ngày 20 – 12 – 1899 bằng một nghị định của Soái Phủ Sài Gòn bỏ các Hạt
và thành lập tỉnh. Tỉnh Gò Công (Province de Gò Công) chính thức lập kể từ ngày
nầy và là 1 trong 21 tỉnh Nam Kỳ kể từ đó.
Dù sau nầy viên chức đứng đầu Tỉnh Gò Công là Tỉnh Trưởng
(Chef de Province) nhưng dân Gò Công quen gọi là Chánh Tham Biện
(Administrateur) và chỗ ở của viên quan nầy gọi là Dinh Chánh Tham Biện hay
Dinh Ông Chánh.
Dinh được Tây cất kiên cố bằng gạch ngói chở từ chính quốc
sang. Đây là dinh thự đồ sộ đầu tiên ở Nam Kỳ (trừ Sài Gòn) bắt đầu xây năm
1885 và xong vài năm sau. Sở dĩ lấy mốc 1885 làm năm xây cất dinh thự nầy là do
tôi, người viết những giòng nầy, năm 1985 có dịch cho UB Huyện Gò Công Đông một
văn bản do Cộng Hòa Pháp gởi cho Nhà Chức trách Tỉnh Gò Công cũ, yêu cầu ngưng
sử dụng dinh thự dành cho viên Chủ Tỉnh vì dinh thự nầy khi xây cất Sở Tạo Tác
thuộc Bộ Hải Quân Pháp dự trù sử dụng 1 trăm năm. Đến năm 1985 là đúng hạn nên
báo cho Nhà Chức trách Gò Công đừng sử dụng, nguy hiểm.
Gò Công có nhiều dinh thự và ngôi nhà Tây cất nhưng duy nhất
chỉ có Dinh Chánh Tham Biện nầy Tây báo cho ta mà thôi. Lúc đó tôi dịch vì tôi
là Giáo viên Tổ trưởng Ngoại ngữ của trường Trung học Trương Định, Ủy Ban nhờ
trường xem coi văn thư chữ Pháp do Tỉnh chuyển xuống nói gì, Trường giao cho
tôi và tôi dịch, xong giao cho Chánh văn phòng Ủy Ban lúc đó là ông Nguyễn Văn
Rí. Và Ủy Ban cho ngưng sử dụng dinh thự nầy.
Đi các tỉnh nào thuộc Nam Kỳ cũ ta đều thấy hình dáng kiểu
dinh thự nầy. Nhưng Dinh Chánh Tham Biệm Gò Công là to và đẹp hơn hết. Hiện
Dinh xưa vẫn còn lại, nét phai tàn lộ rõ vẻ ngoài. Chứng tích còn đó nhưng thời
gian sẽ đưa Dinh vào dĩ vãng.
Thêm nữa khung viên của Dinh Chánh Tham Biện thật rộng lớn.
Đông giáp Sân Vận Động Gò Công và Tòa án. Nam giáp đường Thái Lập Thành nay
là đường Nguyễn Văn Côn. Tây giáp đường Trần Hưng Đạo và Bắc giáp đường Lộ
Dương nay là đường Nguyễn Trọng Dân.
Trong khung viên tòa nhà Chánh tham biện xưa dọc theo lộ
phía Tây (đường Trần Hưng Đạo) có Tòa Hành Chánh, nơi làm việc của Chánh Tham
Biện và các ban ngành. Tên của tòa nầy cho tới năm 1945 kêu bằng tiếng Tây như từ
1868 gọi là Inspection de Go Cong nhưng người dân quen với cách cai trị của
Triều đình cũ gọi là Tòa Bố
Dinh Tỉnh Trưởng nay
(2007) vẫn còn, chờ đợi trùng tu.
(*) Trích trong loạt bài "Gò Công ngày
cũ - CÁC CÔNG THỰ VÀ CÔNG ÍCH PHÍA BẮC KINH SALICETTI" của
tác giả Phan Thanh Sắc.
Đoạn văn trên đây và hình được trích từ: http://www.gocong.com/forums/printer_friendly_posts.asp?TID=239
Lịch sử vùng đất Gò Công theo nguồn của Việt wiki như sau:
Thời Pháp Thuộc:
Năm 1876 Gò Công, vốn trước kia thuộc tỉnh Định Tường thời "Nam Kỳ lục
tỉnh", trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực
(circonscription) Mỹ Tho do thực dân Pháp đặt ra. Hạt tham biện (còn gọi là
Tiểu khu hành chính, trị sở được dân gian quen gọi là tòa Bố) Gò Công gồm
4 tổng: Hòa Đồng Thượng (có
8 làng), Hòa Đồng Hạ (có 10 làng), Hòa Lạc Thượng (có 10 làng), Hòa Lạc Hạ (có
12 làng).
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các
hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Gò
Công trở thành tỉnh Gò Công, với số tổng và số làng không đổi. Khu vực trung
tâm hành chính tỉnh là thị xã Gò Công.
Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, Gò
Công trở thành quận thuộc tỉnh Mỹ Tho. Sau đó lại tái lập tỉnh Gò Công với 5
tổng, thêm tổng Hòa Đồng Trung, số làng cũng thay đổi.
Thời kỳ 1945 – 1954:
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến
Hành chánh Nam Bộ bỏ cấp tổng, còn làng thì thống nhất gọi là xã.
Năm 1946 Gò Công là một trong 21 tỉnh của Nam Bộ.
Thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa:
Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sáp nhập tỉnh Gò Công
vào tỉnh Định Tường mới thành lập trên phần đất tỉnh Mỹ Tho. Ngày 20 tháng 12
năm 1963, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập tỉnh Gò Công, tách từ tỉnh Định
Tường.
Gò Công là một tỉnh nhỏ, phía bắc với giáp hai tỉnh Long An và Gia Định, phía đông là biển Đông, phía nam giáp tỉnh Kiến Hòa,
phía tây giáp tỉnh Định Tường. Ranh giới phía nam của Gò Công là sông Cửa Đại, ranh giới
phía bắc là sông Vàm Cỏ Tây, còn ranh giới phía đông bắc
là sông Nhà Bè đổ ra cửa Soài Rạp.
Khi mới tái lập tỉnh Gò Công gồm 2 quận Châu Thành (đổi tên
từ quận Gò Công) và Hòa Đồng với
4 tổng 31 xã. Ngày 6 tháng 4 năm 1965, chia quận Châu Thành (tỉnh Gò Công)
thành 2 quận: Hòa Tân, quận lỵ tại xã Tân Niên Tây với 9 xã; Hòa Lạc,
quận lỵ tại xã Tăng Hòa với 9 xã; chia quận Hòa Đồng thành 2 quận: Hòa Đồng,
quận lỵ tại xã Vĩnh Bình với 8 xã; Hòa Bình, quận lỵ tại xã
Bình Luông Đông với 5 xã. Như vậy tỉnh Gò Công có 4 quận.
Lăng Hoàng Gia được xây dựng năm 1826
đây là khu lăng mộ và
đền thờ Phạm Đăng Hưng
là ngoại của Vua Tự
Đức
và thân phụ bà Từ Dũ
Thái Hậu (vợ Vua Thiệu Trị).
Chú thích và ảnh nguồn:
trước mộ ông Phạm
Đăng Hưng.
Lăng Hoàng Gia Gò Công và
những bí ẩn lịch sử
Thứ Hai, 07/01/2013
Gò Công (Tiền Giang) có các địa danh lịch sử nổi tiếng đó là
Lăng Hoàng Gia, đền thờ anh hùng dân tộc Trương Định, và ao Trường Đua… Nếu
chưa đến hết 3 nơi đó thì coi như chưa biết Gò Công.
Lăng Hoàng Gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm
Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái
hậu Từ Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vợ vua Thiệu Trị. Nơi đây lưu truyền huyền
thoại Gò Sơn Qui, lưu truyền văn bia kỳ lạ lưu lạc trên 140 năm…
Ảnh và đoạn văn trên đây được trích từ: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=8683
Quí bạn có thể vào website bên trên để đọc thêm về nhân
vật lịch sử Phạm Đăng Hưng.
Đi Thăm Lăng Hoàng Gia Ở Gò Công
Ngày 24 tháng 10 năm 2011.
Nguồn: youtube.
ĐỨC TỪ DỤ
THÂN MẪU
VUA TỰ ĐỨC NHÀ NGUYỄN
VUA TỰ ĐỨC NHÀ NGUYỄN
QUÊ QUÁN Ở GÒ CÔNG
Ảnh nguồn: Việt wiki.
Thái hậu Từ Dụ (1810-1902),
thường bị gọi lầm là Thái hậu Từ Dũ, là một Thái hậu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam vào
thời nhà Nguyễn. Bà là
vợ vua Thiệu Trị và
là mẹ vua Tự Đức. Bà nổi tiếng là người đức hạnh,
biết yêu quí dân và giỏi nuôi dạy con cái. Danh hiệu của bà một thời gian dài
được đặt cho một bệnh viện phụ sản lớn nhất ở Sài Gòn: Bệnh viện Từ Dũ.
Thái hậu Từ Dụ (chữ Hán: 慈裕)
tên thật là Phạm Thị Hằng, tự Nguyệt, Thường hoặc Hào, sinh
ngày 19 tháng 5 năm Canh Ngọ (tức
ngày 20 tháng 6 năm 1810)
tại giồng Sơn Quy (Gò Rùa), làng Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (sau thuộc tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền Giang). Bà là trưởng nữ của Quốc
công Phạm Đăng Hưng và
bà Phạm Thị Vị.
Ngay từ thuở nhỏ bà đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, hiếu
thuận, ham đọc sách. Năm 14 tuổi, bà được Thuận Thiên Cao
Hoàng Hậu Trần Thị Đang, vợ kế của vua Gia Long, tuyển triệu vào hầu Hoàng trưởng
tử Nguyễn Phúc Miên Tông,
con vua Minh Mạng, và là
cháu trai của bà.
Năm 15 tuổi, bà sinh con gái đầu lòng là Diên Phúc công
chúa Nguyễn
Phúc Tĩnh Hảo. Năm sau, bà lại sinh cô công chúa thứ hai là công
chúa Nguyễn
Phúc Uyên Ý.
Ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829),
bà sinh người con thứ ba là trai, đặt tên là Nguyễn Phúc Thì tức Nguyễn Phúc Hồng
Nhậm (vua Tự Đức sau này).
Năm 1841, Miên Tông lên ngôi,
đặt niên hiệu là Thiệu Trị, bà trở thành Cung tần, được giữ
chức Thượng nghi để coi sóc lục thượng, hai năm sau, được phong Thần phi. Qua
đầu năm Thiệu Trị thứ
6 (1846), bà được phong làm Giai phi, rồi Nhất
giai phi.
Lên ngôi vua, Tự Đức nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn
cho mẹ, nhưng bà nhất định chối từ. Mãi đến ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức thứ 2 (tức 7 tháng 5 năm1849),
nhân dịp khánh thành cung Gia Thọ, bà mới thuận nhận Kim bảo (sách vàng &
ấn vàng) và tôn hiệu là Hoàng Thái hậu.
Tháng 6 năm Quí Mùi (1883),
vua Tự Đức mất, để di
chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu. Nhưng vì việc nước lắm rối ren,
mãi đến năm 1885, Hàm Nghi nguyên niên, nhà vua mới có
thể làm lễ tấn tôn cho bà theo di chiếu.
Cũng ngay năm đó, sau lễ tấn tôn trên, Kinh thành Huế thất
thủ, bà cùng với hai bà vợ vua Tự Đức là Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái phi, theo
vua Hàm Nghi chạy ra đến Quảng Trị. Sau lời tâu xin của nhà vua, bà
và hai người con dâu mới trở lại Huế.
Năm 1887, Đồng Khánh thứ
2, nhà vua tấn tôn mỹ hiệu cho bà là Từ Dụ Bát huệ Thái hoàng Thái hậu.
Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, nhân dịp mừng
bà thọ 80 tuổi, bà được dâng tôn hiệu là Từ Dụ Bát huệ Khang thọ Thái thái
hoàng Thái hậu.
Bà mất ngày mùng 5 tháng 4 năm Nhâm Dần (tức 12 tháng 5 năm 1902),
thọ 92 tuổi, được dâng tên thụy là Nghi thiên tán thành, Từ Dụ Bác huệ
trai túc tuệ đạt thọ đức nhân công Chương hoàng hậu, gọi tắt là Từ Dụ Nghi
thiên Chương hoàng hậu.
Ngày 20 tháng 5 cùng năm, triều đình cử hành đại lễ an táng
bà gần phía sau bên trái Xương Lăng (lăng vua Thiệu Trị) và có tên là Lăng Xương
Thọ. Hiện toàn thể khu lăng này tọa lạc tại chân một dãy núi thấp (núi Thuận
Đạo), thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên (nay
thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế),
cách Kinh thành Huế chừng
8 km.
Lễ xong, bài vị của bà được thờ ở Bửu Ðức điện trong Xương
Lăng, được thờ ở Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.
Hiện nay tại Gò Công người dân tôn thờ Bà, Lăng mộ được xây
dựng nơi Bà sinh ra, trong đó có cả mộ của bậc đại thần triều Nguyễn, ông Phạm
Đăng Hưng, thân sinh của Đức Từ Dụ, gọi chung là Lăng Hoàng Gia. (đoạn văn cuối
của Phạm Hoàng Tùng).
Bài viết được trích từ website Việt wiki:
Lăng Người Anh Hùng Dân Tộc
Trương Công Định
Ở Gò Công
Anh hùng Trương Công Định.
Ảnh nguồn: Việt wiki.
Mộ và đền thờ người anh hùng Trương Công Định ở thị xã Gò
Công.
Ảnh nguồn: Việt wiki.
Bên trong Lăng Trương
Công Định.
Ảnh nguồn:
quehuonggocong.com.
Khu di tích Trương Định gồm lăng và đền Trương Định tọa lạc
trong nội ô thị xã Gò Công. Lăng là phần mộ Trương Công Định, vị anh hùng của
Việt Nam Ông sinh năm 1820 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông là
Trương Tầm giữ chức Lãnh binh Gia Định. Từ nhỏ Trương Định đã thông hiểu binh
thư, võ nghệ. Thời Thiệu Trị, ông theo cha vào Nam , ông lấy vợ người Tân An, tỉnh
Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang) rồi ở luôn quê vợ.
Ông là người đi đầu trong việc mộ dân nghèo khai hoang lập
ấp ở huyện Tân Hòa (nay là thị xã Gò Công), được triều đình bổ chức Quản Cơ.
Năm 1860 ông giữ đồn Kỳ Hòa (Gia Định), sau khi thất thủ, và chủ tướng là ông
Nguyễn Tri Phương lui binh về Biên Hòa.
Ông đã anh dũng chống Pháp ở rừng chồi Hòa Hưng, được triều
đình Huế thăng lên Lãnh binh, ông rút binh về Gò Công, tiếp tục kháng chiến,
phục kích và thắng binh Pháp ở Rạch Lá, triều Huế, khắc ấn phong ông chức Bình
Tây Đại nguyên soái.
Ông đánh úp quân Pháp chiếm lại được Gò Công (tháng 03/1862),
nhưng Pháp làm áp lực với Huế, triều đình một mặt giả tước chức ông để lấy lòng
Pháp và phái Phan Thanh Giản khuyên ông hạ khí giới, nhưng ông chỉ giữ một lòng
trung.
Ngày 26/02/1863, Pháp rút lui từ Thượng Hải về bao vây Gò
Công, ông cảm tử đánh xáp lá cà, mở huyệt lộ rút về chiến khu mới giáp ở Cái
Bè, Tân An, Hóc Môn, Bà Điểm, cuối cùng ông kéo binh về Lý Nhơn (nay là một xã
thuộc huyện Cần Giờ, TP.HCM), trong "Đám Lá Tối Trời" *, thắng Pháp một
trận vẻ vang, lập một chiến khu khác tại Gò Công chạy dài từ Bình Xuân đến Bình
Thành và Kiểng Phước.
Nhưng ngày 19/08/1864, ông định kéo quân từ Bình Xuân để về
Gia Thuận, ông bị tên bộ hạ phản trắc Huỳnh Công Tấn bắn gãy xương sống tử
trận.
Nhân dân thương tiếc chôn ông tại thị xã Gò Công. Mộ ông
được xây bằng đá ong với hồ ô dước, trên diện tích 67m2.
Lăng Trương Định là di tích lịch sử, kiến trúc dạng mộ táng
tiêu biểu của người Việt ở Nam
bộ. Đền thờ: xây dựng theo kiến trúc Đông phương vừa cổ kính, vừa tân thời với
các án thờ, khuôn biển chạm trổ sơn son thiếp vàng.
Ngày 18/07 (Âl) năm 1973, lễ khánh thành Đền thờ anh hùng
dân tộc Trương Định diễn ra rất trọng thể và trang nghiêm.
Để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Trương Định,
hàng năm vào ngày 19, 20 tháng 8 dương lịch, Thị xã Gò Công tổ chức trọng thể
lễ hội tưởng niệm với các nghi lễ chính: Lễ rước linh (Thỉnh ông); Lễ Tiên
thường và Chánh tế; Lễ Dâng hương của chính quyền địa phương cùng các hoạt động
văn hóa với mục đích hướng về cội nguồn tưởng nhớ công đức tiền nhân.
(Bài viết này được trích dẫn từ website: quêhươnggocong.com).
* Đám Lá Tối Trời: Từ Gò Công đi về hướng ao Trường Đua, theo đường ấp Long Hưng đến ngã ba ấp Giá Trên thuộc xã Kiểng Phước; từ đây có bảng hướng dẫn đi thêm 8,5 km nữa để đến đền thờ Trương Định (Gia Thuận). nơi này, khi xưa là khu vực “Đám Lá Tối Trời”.
* Đám Lá Tối Trời: Từ Gò Công đi về hướng ao Trường Đua, theo đường ấp Long Hưng đến ngã ba ấp Giá Trên thuộc xã Kiểng Phước; từ đây có bảng hướng dẫn đi thêm 8,5 km nữa để đến đền thờ Trương Định (Gia Thuận). nơi này, khi xưa là khu vực “Đám Lá Tối Trời”.
(Trích từ Việt wiki).
Chúng tôi cũng trích dẫn bài viết của website: Việt wiki về
Lăng Người Anh Hùng Dân Tộc Trương Công Định ở Gò Công
Lăng Trương Định hay Lăng Trương Công Định là lăng mộ của vị anh hùng dân tộc Trương Công Định (Trương Định), Lăng hiện tọa lạc tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1864, sau khi Trương Định tuẫn tiết, bà Trần Thị Sanh, vợ thứ Trương
Định, đã nhận thi hài của ông mang về an táng rất trọng thể. Mộ được làm bằng
hồ ô dước, trên bia mộ khắc: "ĐẠI NAM AN HÀ LÃNH BINH KIÊM BÌNH TÂY ĐẠI
TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG HÚY ĐỊNH CHI MỘ", nhưng nhà cầm quyền Pháp tại Gò
Công ra lệnh đục bỏ hàng chữ "Bình Tây Đại Tướng Quân" và phạt bà
Trần Thị Sanh 10.000 quan tiền vì lập bia trái phép.
Năm 1874, bà Trần Thị Sanh đứng đơn xin lập mộ cho chồng. Mộ
xây bằng đá hoa cương cùng với 3 bức hoành phi và 6 trụ đá
ghi lại thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Trương Định.
Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị đục bỏ. Ngôi mộ trở
nên hoang phế trong thời gian Pháp thuộc bởi sự cấm đoán và dòm ngó của mật
thám.
Năm 1964, Gò Công tái lập tỉnh, để thu phục nhân tâm, chính
quyền cũ đã xuất công quỹ tu bổ ngôi mộ khang trang như ngày nay.
Năm 1972, xây dựng thêm Đền thờ dựa theo bản vẽ của kỹ sư
Nguyễn Ngọc Thiệt do ông Cung Tất Mai làm Trưởng ban. Đền thờ xây dựng theo
kiến trúc Đông phương vừa cổ kính, vừa tân thời với các án thờ, khuôn biển chạm
trổ sơn son thiếp vàng. Đền thờ hoàn thành năm 1973, lễ khánh thành Đền thờ anh
hùng dân tộc Trương Định diễn ra rất trọng thể và trang nghiêm.
Sau này người dân Gò Công đã đầu tư kinh phí để trùng tu,
tôn tạo di tích.
Trích dẫn từ:
Vị Hoàng Hậu Cuối Cùng
Của Triều Nguyễn
Quê Quán Ở Gò Công
Ảnh nguồn: Việt wiki.
Nam Phương Hoàng Hậu (chữ Hán: 南芳皇后, tên
thật Nguyễn Hữu Thị Lan; 1914 -1963) là vợ của vua Bảo Đại.
Bà là vị hoàng hậu duy nhất được phong khi còn sống
của nhà Nguyễn, cũng là hoàng hậu cuối cùng của chế
độ phong kiến Việt Nam.
Bà khuê danh là Nguyễn
Hữu Thị Lan, sinh ngày 4 tháng 12, 1914 tại Gò Công, Tiền Giang,
xuất thân trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy
giờ, do đó bà còn có tên thánh là Marie Thérèse (Maria Têrêsa).
Bà là con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại
ông Lê Phát Đạt (huyện Sĩ) ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt
Nam những năm đầu của thế kỷ 20, trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa mang
quốc tịch Pháp.
Lê Phát Đạt đi học ở Pháp về,
mở đồn điền trà và cà phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác
thường ít chữ nên chỉ loay hoay với ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó
mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến
khai thác đồn điền.
Lê Phát Đạt là người bỏ tiền xây dựng ngôi nhà thờ ở đường
Bùi Chu cũ, hiện nay là nhà thờ Huyện Sỹ, đường Tôn Thất Tùng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và nhà thờ Hạnh Thông Tây ở Gò Vấp (nhà
thờ Chí Hòa đường Cách mạng tháng 8 - Q. Tân Bình được xây dựng với số tiền dư
khi xây dựng xong nhà thờ Huyện Sỹ).
Gia đình Nguyễn Hữu Hào chỉ có 2 người con gái, Nguyễn Hữu
Thị Lan là thứ hai, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào lấy chồng sớm,
học hành không rõ đến lớp nào, chồng là bá tước Didelot, làm công chức cho Tây.
Cuộc sống hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng
chiều. Họ đã sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn
hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu.
Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine thì cả
hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình
thường. Trước ngày cưới thì hai chị em đến ở một căn nhà của gia đình ở đường
Nguyễn Du bây giờ, trước ngày ra Huế.
Các cô ở Sài Gòn để đi học chứ không ở Gò Công.
Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du,
mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi
Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này theo thói quen
lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Đạt vì ông đã công hiến nhiều để xây dựng nhà
thờ.
Năm 1926, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, khi đó 12 tuổi, được
gia đình cho sang Pháp học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ
danh tiếng ở Paris do
các nữ tu điều
hành. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi
đậu tú tài toàn phần (tương đương với tốt
nghiệp THPT hiện nay), Nguyễn Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng
Messagerie Maritime. Vua Bảo Đại hồi
loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau.
Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát
tại Đà Lạt, và được sự dàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và
viên Đốc lý Darle (Thị Trưởng) Đà Lạt,
trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương và viên Đốc
lý thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 1934 ở Huế.
Khi đó Bảo Đại đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Ngay ngày hôm sau,
lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua
phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan
được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các vợ vua
triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước, các bà vợ vua chỉ được phong
tước Vương phi, đến khi chết
mới được truy phong Hoàng hậu.
Ngày 25 tháng 8
Năm 1945, Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông
ban dụ thoái vị. Ngày 30 tháng 8 1945, Bảo Đại thoái vị
trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi
Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Trần Huy Liệu.
Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức "Cố vấn tối
cao" trong chính phủ. Ngày 16 tháng 3 1946, ông tham gia phái
đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa,
nhưng không trở về nước. Sau ngày 19 tháng 12/1946, thực dân Pháp trở
lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu Nam Phương cùng các con sang Pháp.
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời,
bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac,
tỉnh Corrèze,
vùng Limousin nước Pháp.
Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách...
Bảo Đại có đến thăm bà vài lần. Tháng 1 năm 1962, công chúa Phương
Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain. Bảo Đại cũng đến dự và đám
cưới đó là một sự kiện của vùng.
Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng
sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng
hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với
chàng trai Bordelais.
Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm
thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ
hè, các con mới có dịp về thăm bà.
Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới
thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản
gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây
số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49.
Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963. Ngoài hai người giúp
việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ
phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống ở
miền Nam
nước Pháp.
Đám tang của bà được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa
thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Ngày tang lễ, ngoài
hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà
con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac.
Trong suốt thời gian tang lễ Cựu hoàng Bảo Đại cũng không có
mặt. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém
cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.
Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy
dòng tiếng Pháp: “Ici, repose l"impéreatrice d"Annam née
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan”. (Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan). Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: “Đại
Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ” (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của nước Đại Nam ).
Bia chữ Hán:
ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG
HOÀNG HẬU CHI MỘ
(Mộ phần của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam )
Bia chữ Pháp:
ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN
HUU THI LAN
(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu An Nam nhũ danh Maria
Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan)
Bài viết được trích từ:
Nam Phương Hoàng Hậu
cùng Vua Bảo Đại tại Pháp.
Nguồn: youtube.
Hoàng Hậu Nam Phương
cùng Hoàng Đế Bảo Đại và các con.
Nguồn: youtube.
Nhà Văn Danh Tiếng
Đầu Thế Kỷ 20
Hồ Biểu Chánh
Quê Ở Gò Công
Cụ Hồ Biểu Chánh.
Nhà văn danh tiếng đầu
thế kỷ 20
Quê ở Gò Công.
Ảnh nguồn: Việt wiki.
Tiểu sử:
Hồ Biểu Chánh (1884 - 1958), tên thật là Hồ Văn
Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên
phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
Ông sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1
tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công
Đông, tỉnh Tiền Giang).
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ
Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và
Sài Gòn.
Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục
của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936),
từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm,
yêu dân, thương người nghèo khổ.
Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố
vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành
phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa
Pháp-Việt.
Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, thực dân Pháp lập “Nam Kỳ
Quốc” , ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được
mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành
trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương.
Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định;
thọ 74 tuổi.
Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11
quận Gò Vấp.
Sự nghiệp văn chương:
Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh,
trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quí mến hơn tên tộc
Hồ Văn Trung của ông.
Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lại hơn 100 tác phẩm
gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng
tác tuồng hát cùng các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình
sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học
Việt Nam hiện đại.
Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc
ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành,
điểm đặc biệt là rất Nam Bộ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng
tác một số tiểu thuyết Pháp.
Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần
lớn là cuộc sống Nam Bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với
những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông
nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại
tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác
không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và
ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra,
còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.
Phần trên đây được trích từ website
Việt wiki.
Quí bạn đọc cũng có thể vào website sau đây để tìm hiểu thêm
về cuộc đời của nhà văn Hồ Biểu Chánh: http://www.hobieuchanh.com/main.html
Chùa Thanh Trước.
Ảnh nguồn http://www.quehuonggocong.com |
Khu vực cạnh Chùa Thanh Trước là nơi Ba tôi sinh sống hồi nhỏ,
trong khi quê ngoại tôi ở gần chợ Gò Công. Bà nội tôi thường vào chùa phụ giúp
việc nấu cơm mỗi khi có lễ cúng. Người bác tôi tên Phạm Văn Lực, một nhà sư, có
thời gian đứng ra quản trị việc trong chùa. Chùa Thanh Trước cũng là nơi để di
cốt của những người thân trong gia đình chúng tôi đã quá cố.
Đoạn văn dưới đây
được trích từ website http://www.quehuonggocong.com :
Chùa dựng vào năm 1826 tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã
Gò Công. Ban đầu chùa có tên là Phật Linh, đến năm 1851, hòa thượng Chơn Hội
đứng ra tổ chức xây lại chùa và đổi tên là chùa Thanh Trước.
Chùa trải qua 7 đời trụ trì của các hòa thượng. Năm 1896,
hòa thượng Hải Tràng cho trùng tu lần thứ nhất. Từ năm 1941, hòa thượng Hoằng
Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989. Trong chùa còn lưu giữ
nhiều di vật quí như tượng đức Phật, chân dung tổ Ti-ni-đa-lưu-chi và tháp tổ ở
khuôn viên chùa.
Ao Trường Đua ở Gò Công.
Nguyễn Phúc Nghiệp
Ao Trường đua (Thị xã Gò Công) – nơi diễn ra
cuộc đua xe đạp được tổ chức sớm nhất ở Tiền Giang
Năm 1863, ở Gò Công, chính quyền thực dân Pháp cho thành lập
Nhà Bưu điện và điện tín có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ và sáu Trạm bưu điện ở các
xã Bình Xuân, Đồng Sơn, Long Hựu, Tăng Hòa, Tân Niên Tây, Vĩnh Lợi.
Mỗi Trạm Bưu điện chỉ có một nhân viên, mà dân gian quen gọi
là Tuần giả. Việc nhận – phát công văn, thư tín, bưu phẩm, v.v… của các
Trạm Bưu điện đều dựa vào đôi chân đi bộ của các Tuần giả.
Mãi đến đầu năm 1917, các Trạm Bưu điện mới được trang bị xe
đạp. Khi đó, xe đạp rất cồng kềnh và nặng nề; bánh xe được làm bằng sắt và được
bao bọc bằng cao su đặc, chứ chưa có vỏ và ruột cao su như hiện nay.
Đến ngày mùng ba Tết Nguyên Đán năm ấy, theo lệ hàng năm,
ngoài cuộc đua ngựa ở vòng quanh ao Trường Đua; chính
quyền còn tổ chức thêm cuộc đua xe đạp. Đây là cuộc đua mới
lạ, lần đầu tiên xuất hiện ở địa phương, nên thu hút đông đảo quần chúng đến dự
khán.
Thành phần tham dự cuộc đua là 6 viên Tuần giả của
6 Trạm Bưu điện và 2 nhân viên thuộc cơ quan thông tin. Theo thể lệ quy định,
tám vận động viên phải chạy hai vòng
quanh ao Trường đua với chiều dài tổng cộng là 6km và
có ba giải thưởng : giải nhất 20 đồng (khoảng 70 giạ lúa), giải nhì 15 đồng
(khoảng 55 giạ lúa) và giải ba 10 đồng (khoảng 40 giạ lúa).
Sau tiếng còi khai cuộc, tám vận động viên nhấn mạnh bàn
đạp, lướt tới rất nhanh trong tiếng reo hò cổ vũ của bà con. Chạy được nửa
vòng đua thứ nhất, có hai con ngựa sắt bị lạc tay lái, đâm nhào xuống
ruộng, buộc phải bỏ cuộc. Sáu con còn lại tiếp tục cuộc đua. Được
một vòng rưỡi, thêm một vận động viên phải rời đường đua vì
kiệt sức. Còn lại năm tay đua thi nhau bứt phá hết sức quyết liệt.
Khi còn khoảng 50 mét đến đích, chiếc xe của vận động viên dẫn đầu, bánh cao su
bị tuột ra, kể như bị loại giữa lúc cuộc đua đang hồi gay cấn.
Cuối cùng, tay đua của trạm bưu điện Tân Niên Tây
về đến đích đầu tiên, giành giải nhất
Phần mộ người chị Hai Phạm Thị Ngọc Bích được chôn cất
gần Chùa Thanh Trước. |
Đây là ngôi mộ được xây năm 1977, hiện nay mộ đã được làm mới
lại.
Hình ngôi mộ do người thân chúng tôi từ Sài Gòn gởi cho.
|
Bánh Vá Gò Công, một
món ăn ngon miệng.
Ảnh nguồn http://www.quehuonggocong.com
|
Giữa thập niên 1960 và đầu những năm 1970, khi gia đình tôi
về Gò Công thăm họ hàng hai bên nội ngoại thì thường ghé chợ Gò Công ăn bánh
Vá. Món bánh Vá đã đi vào tiềm thức cá nhân tôi cho đến tận giờ này. Món ăn này
vẫn còn tại cố hương nhưng người thân trong gia đình đã lần lượt từ biệt cõi đời!!!.
Trích từ website http://www.quehuonggocong.com :
Nói bánh vá là vì bánh dùng cái VÁ để chiên; còn nói là bánh
giá là vì bánh có dùng GIÁ trộn chung trong nhưn bánh. Trong cuốn Ðại Tự Ðiển
tiếng Việt của Bộ Giáo Dục Hà Nội cũng như cuốn Việt Nam Tân Tự Ðiển của Thanh
Nghị do Khai Trí xuất bản không thấy có chữ bánh vá hay bánh giá.
Trong Nam người ta thường lấy hình tượng bên ngoài, để đặt
tên bánh như: Bánh đúc, bánh bò, bánh bèo (nhỏ và trẹt như bèo), bánh bông lan,
da lợn, bánh khuôn, bánh rế (hình cái rế dùng lót xoong nồi đất ngày xưa), bánh
dừa (gói bằng lá dừa), bánh vòng, bánh ít, ít trần (ếch), bánh phồng,... kể cả
trường hợp bánh VÁ (khuôn bánh là cái VÁ).
Bánh Giá Gò
Công.
Một góc cảng cá Vàm
Láng nằm cách Sài Gòn khoảng 90 km.
Chú thích và ảnh nguồn:
Hội Vàm
Láng (Hội Nghinh Ông).
Chú thích và ảnh nguồn:
Trái sơ ri được hái từ vườn và đổ thành đống.
Ảnh nguồn http://www.quehuonggocong.com |
Bông sơ ri.
|
Trái sơ ri.
|
Trái sơ ri.
|
Lúc tôi được 6 tuổi, khoảng năm 1963, tôi đã thấy cây sơ ri được
Ba tôi trồng trước sân nhà ở số 4 bis/E đường Nguyễn Trung Ngạn, quận Nhất, thủ
đô Sài Gòn. Ba tôi mang cây giống từ quê nội ngoại ở Gò Công lên Sài Gòn trồng.
Cây sơ ri này sống lâu năm và gắn liền với nhiều kỷ niệm thời ấu thơ êm đẹp của
9 anh chị em chúng tôi.
Trích từ website http://www.quehuonggocong.com :
Cây sơ ri có nguồn gốc từ Trung Mỹ. Về sau, nó được trồng
phổ biến ở Nam Mỹ với nhiều tên gọi như : malpighia glabra, acerola hay
bacbados cherry…
Sơ ri hay còn gọi là kim đồng nam, xơ ri vuông (Tên khoa học: Malpighia glabra L.), là một loài cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ có quả nằm trong họ Sơ ri (Malpighiaceae), có nguồn gốc ở Tây Ấn và miền bắc Nam Mỹ. Nó có thể cao tới 3 m, với tán lá dày, có gai. Lá thường xanh, dạng đơn hình trứng-hình mác, dài 5-10 cm, với mép lá nhẵn. Các hoa mọc thành tán với 2-5 hoa cùng nhau, mỗi hoa có đường kính 1-1,5 cm, với 5 cánh hoa màu hồng hay đỏ.
Sơ ri hay còn gọi là kim đồng nam, xơ ri vuông (Tên khoa học: Malpighia glabra L.), là một loài cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ có quả nằm trong họ Sơ ri (Malpighiaceae), có nguồn gốc ở Tây Ấn và miền bắc Nam Mỹ. Nó có thể cao tới 3 m, với tán lá dày, có gai. Lá thường xanh, dạng đơn hình trứng-hình mác, dài 5-10 cm, với mép lá nhẵn. Các hoa mọc thành tán với 2-5 hoa cùng nhau, mỗi hoa có đường kính 1-1,5 cm, với 5 cánh hoa màu hồng hay đỏ.
Quả chín có màu đỏ tươi, đường kính 1 cm, chứa 2-3 hạt cứng.
Nó là loại quả mọng và có vị ngọt, chứa nhiều vitamin C và các chất dinh dưỡng
khác. Đối với bà con nông dân, việc chiết cành, nhân giống cây sơ ri cũng đơn
giản như nhiều loại cây khác, tức là chọn những cây khỏe mạnh, lá dầy, cho trái
tốt, rồi lựa cành, bó chiết cho đến khi cành đâm rễ non thì cắt đem trồng ngay
mà khỏi cần bầu như những cây khác.
Phạm Hoàng Tùng nhớ về cố hương Gò Công với nhiều kỷ niệm
gia đình thời thơ ấu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét