Bất Bạo Động Đồng Nghĩa Với Độc Tài Cộng Sản Muôn Năm! Người Việt Phải Hành Động Để Tự Cứu Mình! Đừng Trông Chờ Bất Kỳ Ai. Blog hoạt động từ ngày 28 tháng 2 năm 2.012

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Lenin Bị Ám Sát


Đảng Cộng Sản Liên Sô 
Và Cái Chết Của Lenin


     Nhóm từ Đảng Cộng Sản đã hiện diện trong danh xưng của đảng từ năm 1918. Thời gian từ năm 1925 tới 1952 tên đảng được đổi thành Đảng Cộng Sản Toàn Liên Bang (Bolshevik) trong Nga Ngữ: (Всесоюзная коммунистическая партия (большевиков) viết tắt ВКП(б)). Danh xưng Đảng Cộng Sản Liên Sô trong Nga Ngữ: Коммунисти́ческая Па́ртия Сове́тского Сою́за viết tắt КПСС (trong Anh Ngữ: Communist Party of the Soviet Union/CPSU) được chính thức sử dụng từ năm 1952 đến 1991.

Lenin cạo râu, 
cải trang che giấu 
hành tung Cộng Sản
khi ở Phần Lan,
Ảnh nguồn: wiki.
     Khi tổ chức Cộng Sản Đệ Tam được thành lập năm 1919, cấu trúc “Tập Trung Dân Chủ” theo Chủ Nghĩa Marx – Lenin trong Đảng Cộng Sản Liên Sô được các thành viên Cộng Sản Đệ Tam trên thế giới sao chép nguyên bản dẫn đến hậu quả hình thành các Đảng Cộng Sản chư hầu.

     Trên lý thuyết cách mạng, nhà nước Liên Bang Sô Viết và Đảng Cộng Sản Liên Sô là hai thực thể chính trị độc lập trong định chế dân chủ nhân dân. Thật sự hai tổ chức này gắn bó, xoắn xít như một dưới sự thống lĩnh tuyệt đối, độc tài, toàn trị, toàn kiểm của Đảng Cộng Sản.

     Cơ quan chỉ đạo đảng là Đại Hội Đảng, Đại Hội Đảng bầu ra Ủy Ban Trung Ương (Ban Chấp Hành), sau đó Ủy Ban Trung Ương bầu chọn Bộ Chính Trị. Dưới thời Stalin, vị trí quyền lực nhất là Tổng Bí Thư Đảng được Bộ Chính Trị chọn.

     Năm 1952, chức vụ Tổng Bí Thư được đổi thành Bí TThứ Nhất và Bộ Chính Trị thay bằng Chủ Tịch Đoàn, tuy nhiên vào năm 1966, dưới thời cai trị của Brezhnev, các chức vụ trên được lấy lại tên cũ.

     Về lý thuyết, quyền lực tối cao thuộc về Đại Hội Đảng, thế nhưng trong thực tế, cấu trúc này thay đổi sau cái chết của Lenin, quyền lực tối cao rơi vào tay cá nhân Tổng Bí Thư Đảng.

     Đảng viên trong đảng có đặc quyền, đặc lợi hơn dân thường. Tương tự như thành phần quý tộc trong xã hội Nga Hoàng được dành cho nhiều sự đãi ngộ, đảng viên có quyền mua sắm tại cửa hàng nhiều hàng hóa, ưu tiên sở hữu nhà cửa, được đến những khu nghỉ mát do nhà nước độc quyền quản trị, được cho phép đi chơi, du lịch ở nước ngoài, được gửi con theo học ở các trường đại học danh tiếng...

     Điều này dĩ nhiên hết sức khó khăn cho những ai không phải là đảng viên Cộng Sản Liên Sô. Hiện thực này chứng tỏ chế độ “cách mạng” do Cộng Sản dựng lên đầy sự phân biệt, kém văn minh so với xã hội bình thường của nhân loại.  

     Khi Bolshevik trở thành Đảng Cộng Sản Toàn Nga, ước lượng có 200.000 đảng viên. Năm 1933, có khoảng 3 triệu rưỡi đảng viên và những người chuẩn bị vào đảng. Năm 1939 sau đợt “Đại Thanh Trừng” của Stalin số lượng đảng viên sụt mạnh xuống còn 1,9 triệu. Năm 1986, Đảng Cộng Sản Liên Sô có hơn 19 triệu đảng viên chiếm 10% dân số tráng niên của Liên Bang. Trên 44% đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân công nghiệp, 12% là nông dân tập thể.                                                         
THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA VLADIMIR LENIN (1870-1924)

     1/ Tổng Quát

     Lenin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại Simbirsk - đế quốc Nga, chết ngày 21/1/1924, tên thật Vladimir Ilich Ulyanov, nhân vật chính yếu trong Cách Mạng Nga, Thủ Tướng đầu tiên (Chủ Tịch Hội Ðồng Ủy Viên Nhân Dân) của Liên Bang Sô Viết (8/11/1917- 21/1/1924).                                                
     Lenin là nhà chính trị đầu tiên cố đưa Chủ Thuyết Marx vào thực tế. Những chính sách Lenin theo đuổi, sau cùng dẫn đến thiết lập Chủ Nghĩa Marx - Lenin trong Liên Bang Sô Viết và sau này ở Trung Hoa cùng nhiều nơi khác như Cu Ba, Bắc Hàn…, riêng ở Cam Bốt với chế độ diệt chủng do Pol Pot cầm đầu tàn sát gần 2 triệu lương dân vô tội...

     Để thoát khỏi tình thế khó khăn, Lenin bị thúc ép phải điều chỉnh chính sách kinh tế nhằm giúp Liên Bang Sô Viết khôi phục hậu quả từ cách mạng và nội chiến. 

     Lenin là người ký sắc lịnh thành lập cơ quan cảnh sát mật Cheka khét tiếng gian ác và cho thi hành chủ trương Khủng Bố Đỏ mạnh tay, cương quyết đàn áp, giết hại người dân Liên Sô chỉ để bảo vệ lợi ích và sự sống còn của Đảng Cộng Sản Liên Sô.     
            
     2/ Đại Hội Đảng Lần Thứ 10

     Lúc khởi đầu, Đảng Cộng Sản cho phép thảo luận tự do và công khai tại các cuộc họp đảng, nhưng điều này thay đổi do nội chiến. Tại Đại Hội 10 của đảng năm 1921, các phe phái khác bị ngăn cấm trong đảng, bao gồm cả đảng đối lập của công nhân. Cho đến năm 1922, Đảng Cộng Sản Liên Sô trở thành đảng hợp pháp duy nhất trong toàn cõi Liên Bang Sô Viết (đế quốc Cộng Sản).                           
Lenin vào năm 1923 trong 
tình trạng suy yếu
 thường xuyên
 sau khi bị ám sát.
Ảnh nguồn: wiki.
     
     3/ Vụ Ám Sát Lenin Lần Thứ Nhất

     Lenin bị thuyết phục rằng khi đưa nước Nga thoát khỏi Đệ Nhất Thế Chiến càng sớm là điều không thể tránh khỏi. Đức và các cường quốc trong Phe Trục muốn đẩy Nga ra khỏi xung đột trong Thế Giới Chiến Thứ Nhất.

     Cuộc hòa nghị đầu tiên khai diễn tháng 12/1917 tại Brest-Litovsk, Ba Lan (bây giờ là Brest, Belarus), tuy nhiên nhiều người Cộng Sản không chấp nhận hòa nghị này, cuộc thương thuyết đổ vỡ tháng 1/1918.

     Một phái đoàn tiền trạm của quân đội Đức tại Petrograd giúp thuyết phục những người cầm đầu Bolshevik phải thành lập Hồng quân, dời thủ đô từ Petrograd đến Moscow và tái mở hội đàm.

     Hòa ước Brest-Litovsk được ký tháng 3/1918, theo đó  Bolshevik từ bỏ chủ quyền tại các phần đất do đế quốc Nga thôn tính trước đây như Ukraine, Ba Lan, Baltic, đồng thời phải bồi thường nặng nề cho Đức.

     Hòa ước này dẫn đến rạn nứt trong chính quyền Cộng Sản non trẻ. Hành động giải tán Quốc Hội Lập Hiến sau khi Bolshevik thua phiếu cũng đã góp phần làm nghiêm trọng tình trạng rạn nứt của phe cách mạng.

     Đảng Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Cánh Tả từng hợp tác với Bolshevik tuyên bố Lenin phản bội cách mạng và rút ra khỏi Hội Đồng Ủy Viên Nhân Dân. Các nhà hoạt động trong đảng này ám sát Đại Sứ Đức tại Moscow. Cùng lúc lại xảy ra nhiều vụ ám sát những kẻ cầm đầu Bolshevik.

     Ngày 14 tháng 1 năm 1918, một vụ mưu sát xảy ra khi xe chở Lenin và Fritz Platten rời khỏi nơi Lenin vừa nói chuyện với công chúng, thủ phạm là số người võ trang không biết danh tánh, khi súng nổ, hai người ngồi ở ghế sau, Platten nắm đầu Lenin đè xuống, tay Platten bị một viên đạn sướt qua làm chảy nhiều máu.   
     
     Fritz Platten sinh ngày 8/7/1883 - chết ngày 22/4/1942, đảng viên Cộng Sản Thụy Sĩ. Fritz Platten là người chính yếu đứng ra tổ chức chuyến hồi hương của Lenin từ chốn lưu đày ở Thụy Sĩ trở về Nga.

     Chuyến đi này khởi hành từ Thụy Sĩ đến Đức bằng xe lửa (Lenin và đoàn tùy tùng phải ngụy trang che giấu tung tích), sau đó dùng phà đi Thụy Điển, rồi ngồi xe lửa xuyên qua miền Bắc Thụy Điển đến Phần Lan và về đến St Petersburg - Nga.                                                      
     Fritz Platten đã tham dự thành lập tổ chức Quốc Tế Cộng Sản Đệ Tam, là đại biểu Đảng Cộng Sản Thụy Sĩ, ông bỏ nhiều năm trong đời cho các hoạt động tại Liên Bang Sô Viết. Sau cùng, Stalin cũng không bỏ quên ông trong cuộc thanh trừng những người Cộng Sản, Fritz Platten chết trong trại tù Gulag năm 1942.                                      
     4/ Vụ Ám Sát Lenin Lần Thứ Hai Gây Chấn Thương Sau Này

Fanya Yefimovna
 Kaplan.
Ảnh nguồn: wiki.
     Ngày 30/8/1918, Fanya Kaplan, thành viên Đảng Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, tiến đến gần Lenin sau khi ông vừa hoàn tất cuộc diễn thuyết tại một cuộc họp và đang quay trở lại xe, Kaplan gọi Lenin gấp, khi ông quay lại trả lời, Kaplan bắn Lenin ba phát: một phát trúng tay bị thương nhẹ; một phát trúng ngay chỗ hiểm yếu ở giữa hàm dưới và cổ (xương cuống họng) khiến Lenin bị thương nghiêm trọng té xuống đất hôn mê; phát thứ ba trúng người phụ nữ đứng gần Lenin khi vụ ám sát xảy ra.  

     Lenin được đưa  đến nơi ông trú ngụ trong Điện Kremlin để cứu chữa cấp tốc, người ta không đưa Lenin vào bịnh viện vì nghi ngờ nơi đây có thể xảy ra vụ ám sát khác nhắm vào ông. Các bác sĩ được gọi đến nhưng họ quyết định không mổ lấy viên đạn ra vì thấy quá nguy hiểm.

     Trong khi Lenin bắt đầu phục hồi từ từ thì tờ báo Pravda ”Sự Thật”, cơ quan tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết đăng tin cho người đọc biết ngay rằng: “Lenin bị trúng hai viên đạn làm lủng phổi, máu chảy tràn ra nhưng lại từ chối sự giúp đỡ, sau đó tiếp tục cố gắng lê bước chân đi tiếp. Sáng hôm sau, mặc dù bị cái chết đe dọa, Lenin vẫn đọc báo, lắng nghe, học hỏi, quan sát để thấy động cơ con tàu mang chúng ta tiến tới cuộc cách mạng toàn cầu đã không ngừng làm việc. (!!!)

     Viên đạn trúng ngay cuống họng làm cho máu chảy vào một lá phổi của Lenin, gây nên tình trạng suy sút sức khỏe nghiêm trọng. Báo chí đảng và nhà nước Cộng Sản Liên Sô vẫn tiếp tục cho công chúng biết rất ít về vụ ám sát này. Lúc đó dân Nga không biết nhân vật nào đã can đảm ám sát Lenin, tình trạng sức khỏe ông ra sao? Sau khi bị bắn trọng thương, Lenin trải qua 4 cơn đột quỵ, sau cùng chết ngày 21/1/1924.                                                                             
     Fanya Yefimovna Kaplan, người bắn Lenin, còn được biết với tên gọi Fanny Kaplan hay Dora Kaplan. Kaplan sinh trong gia đình Do Thái có 7 anh chị em. Bà tham gia hoạt đông chính trị rất sớm và thuộc nhóm Xã Hội Chủ Nghĩa. Năm 1906 bị bắt giữ ở Kiev sau tai nạn chất nổ trong lúc Kaplan đang phụ trách công tác chuyên chở các loại bom đạn để đảng dùng cho hoạt động khủng bố chế độ Nga Hoàng, hậu quả bà bị tù chung thân tại Siberia. Lúc bị giam giữ, bà mất thị giác, sau này được phục hồi phần nào.

     Kaplan được phóng thích ngày 3/3/1917, sau Cách Mạng Tháng Hai. Do mất niềm tin vào Lenin, Kaplan quyết định ám sát kẻ bị coi là phản bội cách mạng. Sau khi bắn Lenin, Kaplan bị cơ quan mật vụ của Cộng Sản là Cheka bắt tạm giam và thẩm vấn. Bà bị tử hình ngày 3 tháng 9 năm 1918.        
                                            

Phạm Hoàng Tùng biên soạn.

Nguồn tham khảo và dữ kiện trích từ:





Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Cộng Sản Hành Hình Vị Nữ Tu


Nữ Đại Công Tước
 Elizabeth Fyodorovna
 tuẫn đạo


            Elizabeth sinh ngày 1/11/1864, là con gái thứ hai của Đại Quận Công Ludwig IV thuộc triều đình Hesse - Rhine và Công Chúa Alice ở Anh Quốc. Mặc dù Elizabeth xuất thân từ một trong những triều đại quí phái nhất và lâu đời nhất ở nước Đức, gia đình họ sống một cuộc đời khiêm nhường so với tiêu chuẩn Hoàng Gia.

Elizabeth
 thời trẻ,
 chụp năm 1880.
Ảnh nguồn:
wiki.
     Những đứa trẻ (công chúa và hoàng tử) lau sàn nhà và dọn dẹp phòng của chúng, trong khi mẹ chúng may quần áo cho bà và các con.

     Vào Mùa Thu 1878, bịnh Bạch Hầu (loại bịnh nghiêm trọng về cổ họng, hay lây làm cho khó thở) lan tràn trong Hoàng Gia Hesse, giết người em gái út Marie của Elizabeth ngày 16/11 cũng như người mẹ Alice của Elizabeth ngày 14/12.

     Elizabeth đã được gửi tới nhà bà nội khi dịch bịnh mới khởi phát và chỉ là thành viên gia đình duy nhất không bị ảnh hưởng. Sau cùng khi được phép trở về nhà, bà diễn tả cuộc gặp mặt là “nỗi buồn ghê gớm” và nói rằng mọi thứ “giống như một giấc mơ kinh hoàng”.

     Duyên dáng và rất hòa hợp, Elizabeth được nhận xét bởi nhiều sử gia và người đương thời là một trong những phụ nữ đẹp nhất Châu Âu thời đó.

     Một Đại Công Tước Nga sau cùng đã chiếm được trái tim Elizabeth. Bà cô vĩ đại của Elizabeth là Hoàng Hậu Maria Alexandrovna của Nga là khách thường xuyên của triều đình Hessse.

     Trong những chuyến viếng thăm này, bà cô có hai người con trai trẻ nhất thường đi theo, đó là Sergei Paul. Elizabeth đã biết họ khi còn bé, đầu tiên nhìn họ như người hiên ngang và thận trọng. Đặc biệt là Sergei là một thanh niên trẻ rất nghiêm chỉnh và sùng đạo.

     Sergei Elizabeth cưới nhau ngày 15/6/1884 tại nhà thờ của Cung Điện Mùa Đông ở St. Petersburg. Bà trở thành Nữ Đại Công Tước Nga Elizabeth Feodorovna. Tân Nữ Đại Công Tước đã tạo hình ảnh tốt đẹp đầu tiên cho Hoàng Gia và người dân Nga.

     Hai vợ chồng không có con. Mặc dù không được yêu cầu cải đạo từ Lutheran qua Chính Thống Giáo Nga, Elizabeth đã tự nguyện chọn làm như thế vào năm 1891.

     Ngày 18/2/1905, Sergei bị ám sát tại Kremlin bởi một thành viên Đảng Cách Mạng XHCN là Ivan Kalyayev. Biến cố này trở  thành cơn chấn động kinh khiếp đối với Elizabeth, nhưng bà không bao giờ mất đi sự trầm tỉnh.   
  
     Cá nhân Elizabeth thăm viếng Kalyayev trong xà lim, yêu cầu ông ta xem xét tính chất nghiêm trọng của hành động ám sát và ăn năn.

     Sau này, bà thỉnh cầu người anh chồng là Nga Hoàng Nicholas II tha thứ cho kẻ ám sát chồng bà, nhưng Đảng Cách Mạng XHCH từ chối chấp nhận sự khoan hồng và tố cáo Elizabeth đã xuyên tạc cuộc đối thoại giữa bà và Ivan Kalyayev. Kalyayev bị treo cổ ngày 23/5/1905.

Nữ Đại Công Tước 
Elizabeth
 Feodorovna
trở thành một
 dì phước
 sau cái chết
 của chồng.
Ảnh nguồn:wiki.
     Sau cái chết của chồng, Elizabeth mặc đồ tang và ăn chay trường. Năm 1909, bà lấy đồ trang sức quí giá đem cho và bán những của cải xa xỉ khác, ngay cả nhẫn cưới.

     Với tiền thu góp được từ việc bán này, bà cho lập ra Tu Viện Thánh Martha Và Mary và trở thành mẹ bề trên của tu viện. Sau đó không lâu, bà lại mở một nhà thương, nhà thờ, một tiệm thuốc và một nhà mồ côi ngay trên miếng đất tu viện.

      Elizabeth và các dì phước làm việc không ngưng nghỉ để giúp người nghèo và kẻ mắc bịnh ở Moscow. Bà thường viếng thăm những khu nhà tồi tàn nhất trong Moscow và làm tất cả những gì có thể giúp được để giảm bớt nỗi đau của người khốn cùng. 

     Năm 1918, Lenin ra lịnh cho cơ quan an ninh Cheka bắt giữ Elizabeth.

     Đầu tiên họ lưu đày bà ở Perm, kế tiếp tới Yekaterinburg, nơi đây bà ở lại vài ngày và có nhiều nạn nhân khác bị giam chung đó là Đại Công Tước Sergei Mikhailovich Romanov, và các vị Hoàng Thân Ioann Konstantinovich, Konstantin Konstantinovich, Igor Konstantinovich Vladimir Pavlovich Paley; Fyodor Remez, thư ký của Đại Công Tước Sergei; Varvara Yakovleva, một dì phước từ tu viện của Nữ Đại Công Tước Elizabeth.

     Tất cả họ bị chuyển đi tới Alapaevsk ngày 20/5/198, nơi đây họ nhốt trong ngôi trường học Napolnaya ở ngoại ô thành phố.

     Trưa ngày 17/7, Petr Startsev, một viên chức Cheka và vài đảng viên Bolshevik tới trường học. Họ móc hết tiền và bất cứ cái gì của tù nhân còn sót lại và thông báo tù nhân sẽ bị chuyển đi trong đêm tới khu vực xưởng Siniachikhensky.

     Các binh lính Hồng Quân được lịnh rời khỏi và nhân viên Cheka đến thay thế. Đêm đó tù nhân được đánh thức và di chuyển bằng những xe bò trên con đường dẫn tới làng Siniachikha. Cách Alapaevsk chừng 18 km có một mỏ sắt bị bỏ hoang phế với một cái hố sâu 20 mét.

     Tới chỗ này họ dừng xe lại. Trừ Đại Công Tước Sergei Mikhailovich bị bắn vào đầu chết lập tức, sau đó Cheka đánh đập tất cả tù nhân trước khi đẩy họ té xuống hố này, Elizabeth là nạn nhân đầu tiên. Kế đến lưu đạn được quăng xuống nhưng chỉ có một nạn nhân là Feodor Remez chết ngay do lựu đạn nổ.

     Theo câu chuyện kể lại của Ryabov, một trong các tên sát nhân có mặt lúc đó, Elizabeth và những người khác còn sống sót khi mới té xuống hố, khiến cho Ryabov ném theo quả lựu đạn.

     Sau tiếng nổ, hắn ta nghe Elizabeth và các nạn nhân hát một bài Thánh Ca Nga từ đáy hố. Không do dự, Ryabov ném thêm quả lựu đạn thứ hai nhưng tiếng ca vẫn tiếp tục vang lên.

     Sau cùng một đống cây khô được quăng xuống hố và lửa ném theo sau để đốt cháy hết nạn nhân. Sau đó Ryabov đặt một lính canh ở gần nơi thanh trừng và rời đi.

     Sớm ngày 18/7/1918, người đứng đầu Cheka của khu vực AlapaevskAbramov và nhân vật đứng đầu Sô Viết vùng Yekaterinburg Beloborodov, người can dự vào vụ thảm sát Hoàng Gia Romanov, trao đổi một số bức điện tín trong một kế hoạch sắp xếp trước, nói rằng ngôi trường bị tấn công bởi một “nhóm người không rõ xuất xứ”.

     Thời gian ngắn sau đó, Alapaevsk rơi vào tay Bạch Quân.

     Ngày 8/10/1918 Bạch Quân khám phá ra các thi hài của Elizabeth và những nạn nhân trong cuộc hãy còn nằm dưới mỏ hoang nơi họ bị thảm sát. Thân xác bà sau đó được mang tới Jerusalem và chôn cất tại Nhà Thờ Maria Magdalene cho tới ngày nay.

     Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga ở hải ngoại năm 1981 và Giáo Hội Chính Thống Nga trong nước năm 1992 tôn vinh Elizabeth làm Tân Thánh tử đạo Elizabeth.

     Các nơi thờ phượng chính của bà là Tu Viện Marfo-Mariinsky mà bà thành lập tại Moscow, và Tu Viện Thánh Mary Magdalence trên núi Olives mà bà và chồng đã giúp đỡ xây dựng, đây cũng là nơi di cốt bà và dì phước Barbara được cất giữ.

     Elizabeth là một trong 10 vị Thánh tử đạo mới trên khắp thế giới trong thế kỷ 20 được đúc tượng trên Cửa Tây Vĩ Đại của Westminster Abbey, London, England.    

     Tượng Elizabeth cũng được xây tại tu viện của bà sau khi Cộng Sản Liên Sô sụp đổ, với giòng chữ đề tặng: ”Gửi đến Nữ Đại Công Tước Elizabeth Feodorovna: Với Sự Hối Hận.



Các pho tượng kính tưởng tại Westminster Abbey
từ trái qua phải là Nữ Đại Công Tước Elizabeth;
 nhà hoạt động Nhân Quyền Martin Luther King, Jr.
(1929-1968);
 Tổng Giám Mục Oscar Romero;
 Mục Sư Dietrich Bonhoeffer.
 Ảnh nguồn: wiki.

Phạm Hoàng Tùng biên soạn.

Nguồn tham khảo và dữ kiện được trích từ: